Sasuke lẩm bẩm, đọc lại ghi chú của Shikamaru thêm ba lần nữa. Vậy chìa khóa của việc chữa trị là Tinh cực. Dựa theo ghi chú đó, Lục Đạo Tiên Nhân đã chia Tinh cực ra làm đôi: một "rơi. xuống Trái Đất nhưng lại ẩn trên bầu trời" và một "ngôi sao còn lại tiếp Tôi thương cảnh mẹ cô ấy tuy già nhưng ở một mình nên xin ở lại cho vui. Ai ngờ cô ấy phán ngay: Anh ở đây, em giao mẹ cho anh luôn". Ông Đức bà Tường kể lại chuyện tình chớm nở năm bà 48 tuổi tại chương trình "Tình trăm năm" tập 114 (Ảnh: Tình trăm năm). Đừng nghĩ rằng chỉ 3 chữ "Anh yêu em" mới có thể thổ lộ lòng mình. Dù là vợ chồng hay người yêu, có những câu nói còn khiến người ấy ấm lòng, cảm nhận rõ sự chân thành hơn thế. Nghe audio. Tình yêu đích thực là khi hai trái tim hòa làm một, dù sức mạnh thế nào cũng Nhà thơ dùng từ bẽ bàng để diễn nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, buồn vì cảnh hoang vắng, buồn vì mối tình đầu dang dở khiến lòng như bị xé : "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng". Như vậy từ cảnh vật ở lầu Ngưng Bích, sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc Tái hôn với tình đầu sau 10 năm chia tay. Tình cờ gặp lại tình đầu sau khi đều đã ly hôn, cặp nam nữ Trung Quốc quyết định tái hợp, mỗi người mang theo hai con riêng lập thành một gia đình. Giải VBT Ngữ văn 6 bài Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Câu 1 (trang 82 VBT Ngữ Văn 6 Tập 1) Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm, Từ đó: a, Trả lời các câu hỏi sau: - Vị thái y lệnh là người thế nào? Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Vì chăng duyên nợ ba sinh, Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, 260.. Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu ! Gió chiều như gợi cơn sầu, RpLF2SC. 1. Dàn ý phân tích sáu câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du a. Mở bài - Giới thiệu tác giả, tác phẩm. - Nội dung sáu câu thơ đầu cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều. b. Thân bài Cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều - Cảnh ngộ “khóa xuân” + Tình cảnh bất hạnh Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, phải chôn vùi tuổi xuân ở nơi này. + Sự xót xa, mỉa mai cho số phận vì Thúy Kiều không còn trong trắng nữa. - Quang cảnh quanh lầu Ngưng Bích + Rộng lớn, mênh mông, bát ngát Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” -> không gian mở ra chiều cao, chiều xa -> hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi, chênh vênh, đơn độc giữa không gian. Từ láy “bát ngát” -> tô đậm hơn một không gian rợn ngợp cả 4 bề. + Trống trải, hoang vắng, không có dấu hiệu của sự sống Liệt kê “cát vàng”, “bụi hồng”, “cồn nọ”, “dặm kia” -> phủ định sự sống, gợi sự ngổn ngang của cảnh vật. Tiểu đối “mây sớm” – “đêm khuya” càng gợi sự quạnh vắng, hắt hiu của cảnh. → Quang cảnh rộng trống, cô liêu, nhạt phai sự sống đã trở thành phương tiện để mở ra bao nỗi niềm của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. - Tâm trạng của nàng Kiều + Sự cô đơn, lẻ loi cùng cực không một bóng người bầu bạn, chỉ có thể làm bạn với “trăng gần”, “mây sớm”. “đêm khuya” với những vật vô tri; mọi phương tiện giao cảm giữa con người với con người bị cắt đứt. + Ngổn ngang trăm mối âu lo, day dứt, đau khổ “Xa trông” không đơn giản chỉ là nhìn mà còn là sự ngóng đợi, sự khắc khoải kiếm tìm một dấu hiệu chỉ là nhỏ nhoi nhất của sự sống, của cái ấm áp giữa nơi mà cô đơn hoàn toàn ngự trị. Cách phác họa cảnh vật ngổn ngang -> gợi sự ngổn ngang trong lòng nàng. + Nỗi niềm chua xót, bẽ bàng cho cảnh ngộ, thân phận Lúc nào cũng chỉ có một mình, không thể chia sẻ cùng ai. Chồng chất nỗi đau của cốt nhục chia lìa, tình yêu tan vỡ, bơ vơ nơi góc bể chân trời, trở thành một món hàng trong tay mụ Tú Bà. Bị đày đọa giữa không gian xa xôi, hoang vắng, trong thời gian dằng dặc triền miên, trong tình cảnh cô đơn cùng cực. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình, với một hệ thống hình ảnh vừa chân thực, vừa sáng tạo, Nguyễn Du đã không chỉ phác họa được quanh cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích mà ông còn giúp bạn đọc hiểu được cảnh ngộ và tâm trạng cô đơn, lẻ loi, đầy bi kịch của Thúy Kiều. c. Kết bài Nêu cảm nghĩ của em về sáu câu thơ đầu. 2. Phân tích sáu câu thơ đầu Kiều ở lâu Ngưng Bích của Nguyễn Du Có người từng nói "Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc". Quả thật vậy, càng suy ngẫm ta càng thấm thía, càng thấy độc đáo - một đại thi hào dân tộc với sự sáng tạo tuyệt vời đã làm cho ngôn ngữ dân tộc vốn đẹp giờ càng đẹp hơn. Tả cảnh ngụ tình là một cách Nguyễn Du thể hiện thành công nét độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sáu câu thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng, xót xa của nàng Kiều; đó là "tình" trong "cảnh", "cảnh" trong "tính" “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng...” Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.” Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ vừa chán nản, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Một khung cảnh bao la, rộng lớn nhưng lại thấm đẫm một nỗi sầu của nàng Kiều. Đúng như Nguyễn Du viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài đặc, quẩn quanh, "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả đang giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, chỉ biết làm bạn với "mây" và "đèn". Câu thơ "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng" không chỉ buồn rầu, tủi hổ về thân phận, số phận cay đắng, truân chuyên mà nàng còn xót xa vì cái "tình riêng" khiến lòng nàng như bị xé! Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối phụ họa với nhau mà tác động đến Thúy Kiều, chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan nát, dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ kể về cuộc đời con gái họ Vương có tài, có sắc bị đày đọa bi thảm mà còn nói lên nỗi đau xót của mình trong trước số phận đầy khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” Nguyễn Khánh Toàn. Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót. Tóm lại, vẽ nên tấm gương oan khổ, câu chuyện thê thảm của cuộc đời nàng Kiều, tiếng nói Nguyễn Du là tiếng kêu thương não nùng đau đớn trước vận mệnh của con người trong xã hội phong kiến. Tinh thần nhân đạo chứa chan là cội nguồn của tiếng kêu thương ấy. Nguyễn Du đã xót thương cho cái số phận đầy sóng gió ấy. Thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo cảnh thực ở lầu Ngưng Bích và sự xót xa, buồn tủi của nàng Kiều về tình riêng dang dở. 3. Bình giảng sáu câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du Trong khoảng đời lưu lạc của Kiều, Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng thông cảm, chia sẻ với nàng. Ngay từ đoạn đầu đời của bước đường lưu lạc “trước lầu Ngưng Bích”, nàng phải đối diện với chính mình trong nỗi đau bi kịch. Bi kịch nội tâm của phép tả cảnh ngụ tình. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một thành tựu đặc sắc của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Thúy Kiều thông minh, nhạy cảm, tài sắc, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”. Nhưng bất ngờ tai vạ lại ập đến với gia đình nàng. Nàng buộc phải bán mình chuộc cha, trao cả cuộc đời cho Mã Giám Sinh lưu manh, và rồi lại rơi vào chốn lầu xanh của Mụ Tú, cái lầu Ngưng Bích mà mụ dành cho Kiều ở thật ra là cái cạm bẫy để rồi đưa nàng vào cuộc đời của một cô gái lầu xanh. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích là dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp sửa phải gánh chịu. Đoạn thơ trích là một bức tranh buồn, một nỗi buồn xót xa của thân gái dặm trường phải đối với bao nghiệt ngã ở chính mình – một nỗi buồn xa xót, thê lương, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người; một nỗi buồn của con người hoàn toàn cô đơn giữa khung cảnh thiên nhiên vắng lặng. Mở đầu đoạn thơ là khung cảnh bi kịch nội tâm Thúy Kiều “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” Chỉ vài nét chấm phá của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã gợi lên một tâm trạng cô đơn, trơ trọi của Thúy Kiều trước không gian mênh mông vắng lặng. Từ lầu cao ngước mắt xa trông, nàng chỉ thấy trong tầm mắt dáng núi mờ xa và một mảnh trăng gần. Bức tranh thiên nhiên thì đẹp, nhưng lòng người thì buồn, nên cảnh cũng đeo sầu. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhìn xuống mặt đất thì cảnh vật bốn về xa trông bát ngát, bên thì “cát vàng cồn nọ” nhấp nhô, gợn sóng, bên thì “bụi hồng dặm kia” thưa thớt thoáng hiện dưới ánh trăng vàng. Bức tranh thiên nhiên dù nên thơ, thoáng đãng, nhưng lại rất tĩnh – cái tình lặng gần như tuyệt đối ấy, cái mênh mông vắng lặng ấy lại càng khắc sâu thêm nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của nàng. Để rồi nỗi cô đơn ấy lại càng đẩy lên đến mức tuyệt đối “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.” Hình ảnh “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian và không gian hãm con người nơi đất lạ, miền xa. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya” để mà tự thổn thức, tự hoài niệm. Thật oái oăm cho cảnh, “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Một nửa là tâm sự của Thúy Kiều và nửa kia là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích. Hai nỗi ấy đan xen vào nhau, làm choáng ngợp lòng Kiều, khiến Kiều đau đớn bơn, tan tác hơn. Nàng đắm chìm trong nỗi buồn cô đơn, tuyệt vọng. Thiên nhiên có tác động rất lớn đến tâm hồn con người, là hình ảnh phản chiếu tâm hồn con người – Nguyễn Du từ thời đó đã nói với chúng ta như thế. Ở lầu Ngưng Bích, chỉ có mình Kiều với thiên nhiên. “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”... không phải là "dãy núi và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như trong cùng một bức tranh" Văn 9 - phần chú giải mà là “ở chung" với nàng Kiều. Nói vậy có vẻ như thô thiển, nhưng nếu phải tìm hiểu tận cùng ngữ nghĩa, thì đúng là nàng Kiều chỉ có thiên nhiên làm bầu bạn. Tất cả mọi dáng vẻ của thiên nhiên xa mờ như sắc núi có thể nhìn thấy lúc ban ngày đẹp trời, gần gũi như mảnh trăng lúc ban đêm... sớm lại chiều, ngày này qua ngày khác, nhìn thấy được nhưng không thể cùng nàng chuyện trò, chia sẻ... Lầu Ngưng Bích hẳn ở một nơi hoang vắng, ít người qua lại, khắp "bốn bề" và cho đến tận "xa trông", về phía nào cũng chỉ thấy bụi cây, cồn cát. Mỗi câu thơ là một cặp đối xứng vẻ non xa - tấm trăng gần mờ ảo; cát vàng cồn nọ - bụi hồng dặm kia tầng tầng lớp lớp; mây sớm - đèn khuya vắng lặng cô đơn... Cái vẻ đối xứng tạo nên cảm giác trùng lập của hình ảnh ấy, chính là những nỗi ngổn ngang, bề bộn trong lòng nàng Kiều, không dám hi vọng, tin tưởng mà cũng không hoàn toàn là tuyệt vọng đớn đau. Vì nàng còn quá trẻ, vì dù gặp tai biến, cuộc đời cũng mới chỉ bắt đầu. Nhưng nếu nàng vừa hi vọng, dù chỉ mơ hồ, thấp thoáng, thì lại không tránh khỏi "bẽ bàng" tội nghiệp ngay trong vô vọng. “Nửa tình, nửa cảnh", buồn rồi nhớ, đợi chờ, hi vọng rồi thất vọng “như chia tấm lòng ". nối nhau đến rồi đi trong lòng nàng như thế. Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Với những nét phác họa có chọn lọc về cảnh vật thiên nhiên, về ngôn ngữ độc thoại và hề thống ngôn ngữ dân tộc là chủ yếu, Nguyễn Du đã miêu tả những diễn biến tâm trạng nhân vật một cách sinh động, tạo được ấn tượng mạnh mẻ đối với người đọc. Với một trái tim nhân đạo, giàu tính nhân văn sâu sắc, kết hợp với bút lực tài hoa, Nguyễn Du đã tạo nên một đoạn thơ nổi tiếng nhất trong Truyện Kiều. Bạn đang xem “Nửa tình nửa cảnh” là gì? TRONG THCS Diễn Châu 2 – Nghệ AnChắc các bạn không lạ gì kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, được coi là bảo vật quốc gia. Những câu thơ không chỉ như những câu chuyện thủ thỉ, mà còn chất chứa cả tâm hồn. Có thể nói đây là một bộ phim hài bi kịch kể về một cô gái xinh đẹp nhưng hay buồn. Truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện nỗi cô đơn trong tâm hồn của người thiếu nữ, đồng thời là nỗi buồn của kẻ lạc loài. Vậy để hiểu thêm về câu ca dao đặc sắc “Nửa tình, nửa chặng như xẻ đôi tim”? Hãy cùng Toploigiai tham khảo bài viết sau đây. Bài thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” dài 22 dòng, trích trong Truyện Kiều là “Bài thơ đau vì tình” Tố Hữu. Bao biến cố khủng khiếp đã xảy ra tai ương, tai ương, tai bay vạ gió, cha và em vào tù, tài sản bị bọn “đầu trâu mặt ngựa” cướp sạch, “thuần sinh…”, phải bán mình chuộc tội. . cha và để họ đi. số phận cho mình, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sau khi bị Mã Giám Sinh “làm mất”, bị mẹ ruột làm nhục, Kiều đã tự vẫn nhưng được cứu thoát. Kiều được Tú Bà thăng chức với lời hứa “ngươi sẽ thong dong” nhưng thực ra nàng đang bị quản thúc. tủi nhục suốt 15 năm. Ở đây, trong một khoảnh khắc nào đó, Kiều nhìn cảnh mà thấy thương mình, thương đời. Đây có thể nói là một hình ảnh đẹp trong bài, người đẹp, cảnh đẹp nhưng lòng người không bằng lòng. >>> Tham khảo Cảm nghĩ về 8 câu cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích Đến câu thơ “Nửa tình, nửa đoạn như xẻ đôi tấm lòng” ta hiểu rằng trong hoàn cảnh như thế này, lòng Kiều như chia đôi, Kiều có lúc nghĩ đến tình, có lúc lại nghĩ đến cảnh. Có thể nói, câu thơ muốn nói đến tâm trạng bối rối, tâm trạng mỗi lúc một nhiều của Kiều. Hoặc chúng ta cũng có thể hiểu Kiều khi vì cảnh mà nhìn, có khi vì cảnh mà vào sinh ra tử. Đây là tài năng của nhà thơ khi ông viết những câu thơ có thể diễn đạt bằng nhiều cách. Tuy nhiên phải đặt vào hoàn cảnh của Kiều thì mới miêu tả chính xác được. Sớm khuya, Kiều một mình nơi đất khách quê người, chỉ biết làm bạn với mây, với đèn. Trong sự cô độc tuyệt đối ấy, lòng Kiều chất chứa một tầng nỗi niềm chua xót. Buồn vì tan hoang, nát lòng và buồn vì một mối tình riêng khiến lòng người chia đôi Nửa tình nửa cảnh như chia đôi lòng. Bốn chữ “lòng chia đôi” gợi tả một cảm giác, một trái tim tan nát, đau đớn. Bởi vậy, dù sống giữa cảnh đẹp tĩnh mịch, núi xa trăng gần, nàng vẫn cảm thấy cô đơn, tủi nhục, bởi “Người buồn có bao giờ vui”. Kiều không khỏi cảm thấy cô đơn, tủi nhục trước hoàn cảnh. >>> Tham khảo Điển tích trong Kiều ở lầu Ngưng Bích? Ý thơ được chuyển hóa một cách hết sức linh hoạt tả cảnh liên tưởng đến không gian cao rộng khiến cho cảnh vật được kéo dài ra. Biểu hiện tâm trạng liên quan đến thời gian. Thời gian đằng đẵng mây sớm, đèn khuya thể hiện tâm trạng buồn chán của Kiều “Nửa tình, nửa cảnh”, dường như không có gì khác biệt. Bài văn tả cảnh ngụ tình hết sức tài hoa, độc đáo đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh, ngoại cảnh, trong đó hiện lên tâm trạng hỗn độn đau đớn, cay đắng, sợ hãi, tuyệt vọng, góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp cho thế giới. vẻ đẹp của lòng thủy chung, hiếu thảo, nhân hậu. ở Thúy Kiều trong những câu thơ sau, đặc biệt ở 8 câu cuối là bằng chứng hùng hồn nhất và 6 câu đầu là tiền đề để có lí do nói Thúy Kiều là nguyên nhân cái chết. lòng hiếu thảo, lòng hiếu thảo, lòng trung thành. Trong nỗi cô đơn tự nhiên bao trùm lấy nàng, khi Kiều một mình một góc trời trên Ngưng Bích, nỗi nhớ gia đình, nhớ thương người tình lại trở về như một lẽ tất yếu, rất đúng quy luật. quy luật tâm lý của người tha hương. Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Ở đây ta có thể thấy cách dùng từ rất điêu luyện và tài tình của nhà thơ. Để diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, tác giả đã sử dụng động từ “nghĩ”. Ý nghĩ đã đến độ chàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng nói chuyện với Kiều ngay trước mắt mình. Kiều nhớ đêm trăng hẹn thề, hai người uống chung ly rượu, nguyện bên nhau trọn đời. Nhưng nay lưu lạc nơi xứ lạ, tưởng Kim Trọng đang đợi tin mình, nàng lặng thinh. ———————————— Như vậy, trên đây Toploigiai đã cùng các bạn tìm hiểu thế nào là thể thơ “Nửa tình, nửa đoạn như vỡ lòng” trong bài thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đây chỉ là một đoạn trích nhỏ trong vô số văn bản, bạn có thể tìm hiểu thêm trong Top giải pháp. Chúc bạn thành công sau bài viết này! Bạn xem bài “Nửa tình nửa cảnh” là gì? Bạn đã khắc phục vấn đề bạn tìm thấy chưa?, nếu không, vui lòng bình luận thêm “Cảnh nửa yêu, nửa đau” là gì? bên dưới để trường THPT Diễn Châu 2 thay đổi và hoàn thiện nội dung cho tốt hơn nhé! Cảm ơn các bạn đã ghé thăm website của trường THPT Diễn Châu 2 Đừng quên dẫn nguồn bài viết này “Nửa tình nửa cảnh” là gì? của website Danh mục Nó là gì? Hy vọng thông qua bài viết “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” là gì? Cakhia TV trang web trực tiếp bóng đá miễn phí sẽ giúp ích được quý bạn đọc. Bạn đang thắc mắc về câu hỏi nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. Bài viết dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ tình nửa cảnh như chia tấm lòng là như thế nào? câu hỏi hiểu của em về câu “nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng”? tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì – Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng câu này có nghĩa là gì lầu Ngưng Bích khóa xuân nửa tình nửa cảnh như chia tấm … tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích. Văn mẫu lớp tình, nửa cảnh – Kiều chú giải, 1953 — Page Điển – Từ nửa tình nửa cảnh có ý nghĩa gì – Chữ 7 Bài phân tích 6 câu thơ đầu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích …Những thông tin chia sẻ bên trên về câu hỏi nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì, chắc chắn đã giúp bạn có được câu trả lời như mong muốn, bạn hãy chia sẻ bài viết này đến mọi người để mọi người có thể biết được thông tin hữu ích này nhé. Chúc bạn một ngày tốt lành! Top Câu Hỏi -TOP 9 nội tâm là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 10 nội thất là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 10 nội sinh là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 9 nội chí tuyến là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 9 nổi tiếng tiếng anh là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 9 nồng độ ph là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 10 nệm tiếng anh là gì HAY và MỚI NHẤT Bài văn mẫu lớp 9Những bài văn mẫu hay lớp 9Văn mẫu lớp 9 Phân tích thiên nhiên và cảnh ngộ của Thúy Kiều trong 6 câu đầu bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham bài Phân tích thiên nhiên và cảnh ngộ của Thúy Kiều trong 6 câu đầu bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích"Bài làm 1Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc nàyTrước lầu Ngưng Bích khoá xuânVẻ non xa tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kiaCó thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớnBẽ bàng mây sớm đèn khuya,Nửa tình nửa cảnh như chia tấm chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc làm 2Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích. Gợi tả hòan cảnh cô đơn của KiềuTrước hết là hình ảnh bị giam lỏng “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho thấy Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi giữa một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , không một bóng người “Vẻ non xa tấm trăng gần soi bề bát ngát xa trông,Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một không gian rợn ngợp. Từ lầu cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa trông bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như sóng lượn , bên thì những đám bụi hồng trải khắp dặm thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó càng làm nổi bật hơn nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm bẻ bàng chua xót “Bẽ bàng mây sớm đèn tình nửa cảnh như chia tấm lòng”Cụm từ “mây sớm đèn khuya” là từ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và ngày Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn . Có thể nói đây là lúc nàng cô đơn tuyệt xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra người yêu đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận ,nàng cảm thấy như mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trông ngóng, đau khổ, mòn mõi “rày trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình.“Tưởng người dưới nguyệt chén sương luống những rày trông mai chờ”.Càng thương nhớ người yêu , càng tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người của mình và càng hiểu tấm lòng sắt son của mình đối với Kim sẽ không bao giờ phai nhạt. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Trả lời

nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì